Bài cúng lễ ông Táo ngày 23 tháng chạp – Tết ông Công, ông Táo

Sự tích hay truyền thuyết về ông Công, ông Táo. Lễ vật cúng và bài khấn ông Công, ông Táo chầu trời vào ngày 23 tháng chạp Âm lịch hàng năm.

Ông Táo còn gọi Táo Quân, bay Thổ Công là vị Thần trông coi mọi hoạt động của gia chủ, ngăn cản sự xâm phạm của ma quỷ vào thổ cư, do vậy theo dân gian thì đây là vị thần liên quan đến việc họa việc phúc của gia chủ.

Sự tích ông Công, ông Táo

Theo dân gian thì ông Táo hay Thổ Công gồm có 3 vị (hai ông, một bà), có nơi còn gọi vua Bếp, và truyền thuyết về sự tích như sau: Xưa có người tên là Trọng Cao, lấy vợ là Thị Nhi, nhưng ăn ở với nhau đă lâu mà đường con cái muộn mằn, sinh ra buồn phiền, xích mích. Một hôm Trọng Cao đánh vợ, Thị Nhi bực tức bỏ nhà ra đi và gặp Phạm Lang tạo cuộc sống mới nên vợ nên chồng.

Trọng Cao ân hận, bỏ công ăn việc làm, đi khắp mọi nơi tìm vợ và trở thành người hành khất cho qua ngày. Có lần Trọng Cao vào một nhà xin ăn, được bà chủ mang cơm ra đãi. Trọng Cao nhận ra bà chủ là Thị Nhi và bà chủ cũng nhận rõ người hành khất là chồng cũ của mình. Hai người ân hận, hàn huyên, lại sợ Phạm Lang về bắt gặp thì khó nói nên Thị Nhi bảo Trọng Cao ẩn vào đống rơm ngoài vườn để nàng tìm cách lo liệu cho êm đẹp.

Trọng Cao mệt mỏi ngủ thiếp trong đông rơm. Lúc đó Phạm Lang về nhớ việc thiếu tro bỏ ruộng, liền châm lửa đốt đống rơm. Sự việc nhanh chóng xảy ra, Thị Nhi chạy ra thấy vậy, quá xúc động thương tình liền nhảy vào đống lửa chết theo Trọng Cao. Thấy vợ chết cháy, Phạm Lang thương xót tiếp tục nhảy vào đông lửa đang cháy đó. Như vậy, hai ông một bà đều bị chết cháy. Thượng đế thương tình ba người sống có nghĩa, có tình nên phong cho làm Táo Quân và giao cho Phạm Lang là Thổ Công trông nom việc trong bếp, Trọng Cao là Thổ Địa trông coi việc trong nhà, còn Thị Nhi là Thể Kỳ trông nom việc chợ búa.

Nhưng có truyền thuyết lại nói Thị Nhi đang hóa vàng, thấy chồng cũ lỡ vận liền đem tiền gạo ra cho nên bị Phạm Lang nghi ngờ, Thị Nhi liền nhảy vào đông lửa tự tử. Thấy vậy Trọng Cao nhảy vào lửa chết theo. Phạm Lang cảm xúc thương tình nhảy theo vào đông lửa cùng chết cháy. Thượng đế biết sự việc phong cho làm Táo Quân…

Làm lễ ông Táo chầu trời

Thường thì chiều 22 tháng Chạp làm lễ tiễn Táo Quân, đế 23 tháng Chạp ông Táo lên chầu trời, tấu trình mọi sự của gia chủ, đến trưa 30 tháng Chạp thì có mặt tại nhà tiếp tục công việc…
Theo Trần Hàn Tấn trợ bút trường Viễn Đông Bác Cổ (1929) thì ngày 24 vua Bếp lên chầu trời, chiều 30 Tết về nhà. Còn vua Bếp Trung Quốc 24 tháng Chạp lên chầu trời, ngày mồng 5 tết mới về hạ giới.

Từ sự tích trên nên sắm mũ Thổ Công thường có ba chiếc, một của nữ Thần, hai của nam Thần, hoặc chỉ sắm một chiếc mũ nam Thần có cánh chuồn kèm theo là áo và hia cùng bệ bằng giấy là được.

Theo sách Nam Định địa dư chí của tiến sĩ đốc học Khiếu Năng Tĩnh thế kỷ XIX, mục phong tục thì mũ và áo của Táo Quân màu vàng. Nhưng có sách lại nói màu sác tùy thuộc từng năm, ứng với các hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

Bài vị thờ Táo Quân thường chỉ đề:

“Đông trù tư mệnh Táo phủ Thần Quân”

Hoặc đề:

“Bản Thổ phúc đức Tôn Thần”

(Vị thần định sự phúc đức cho gia đình)

Cũng có nơi lại ghi bài vị:

“Định phúc Táo Quân “
(Ông Táo định việc phúc)

Có người còn quan niệm Táo Quân là vị chủ thứ nhất của nhà: “Đệ nhất gia chi chủ” nên khi cúng lễ đều phải khấn Táo Quân trước.

Lễ vật trên ban Thổ Công, ngoài mũ, áo, hia, bài vị còn có thêm cây mía (làm gậy chống), giấy vàng, giấy bạc, trầu nước, hoa quả. Những ngày lễ lớn đặc biệt là 23 tháng Chạp thì có thêm cỗ mặn (xôi, rượu, thịt), một con cá chép sông. Lễ xong sẽ phóng sinh con cá ra ao hoặc ra sông, con cá sẽ hóa rồng đưa Thổ Công lên trời.

Sau khi sắp đủ lễ vật, sẽ thắp đèn, nến sáng ban thờ rồi châm hương. Có người không dùng lửa ở đèn thờ để châm hương, mà dùng lửa khác để châm hương. Hương thường được dùng số lẻ 1,.3, 5 nén, vì số lẻ thuộc dương. Theo dịch lý thì dương tượng trưng cho Trời, cho sự nẩy nở của muôn vật… nên dùng số lẻ là như vậy.

Nếu trên ban thờ có hai, ba, hoặc bốn bát nhang cũng đều phải châm số lượng hương như nhau.

Sau khi châm hương, người chủ gia đình vái bốn vái rồi đọc văn khấn, hoặc khấn không có văn, khấn xong lại vái tạ bốn vái (vái khác với bái, “cúc cung bái” khi tế). Khi vái hoặc bái, hai bàn tay áp vào nhau, hoặc cài ngón vào nhau đều là biểu tượng của sự giao hòa, là cảm ứng của âm – dương nên không được chắp tay hoặc cài ngón cẩu thả, để so le. Và điều cốt yếu khi vái hoặc bái, người thực thi phải tâm thành, phải trầm tư như trước mặt mình là Gia thần, Gia tiên. Sự thành kính, nghiêm túc sẽ khiến cho Thần linh chứng giám, nếu thiếu sự thành tâm, bày lỗ lên lấy lệ, khấn vái không nghiêm túc thì đó là sự nhạo báng.

Khi cháy gần hết tuần nhang, gia chủ thắp tiếp tuần nhang khác, vái bốn vái xin phép Gia thần, Gia tiên hóa vàng (đốt giấy vàng, giấy tiền). Khi hóa xong thì đổ vào đống tro một chén rượu (dân gian cho rằng đổ chén rượu vào đống tro thì cõi âm mới nhận được số vàng, mả cõi dương chuyển đến). Hóa vàng xong thì hạ lễ. (Khi hạ lễ cũng phải vái bốn vái xin phép).

Có luận điểm còn cho việc thắp 3 nén nhang là tượng trưng cho ba ngôi Trời, Đất, Người (Thiên – Địa – Nhân) là biểu hiện tương cảm, tương ứng của nguyên lý vũ trụ phương Đông.

Bài văn khấn Nôm cúng ông Táo

Theo tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh, viết về phong tục thì ông Táo là vị Thần được Thượng đế phân công cai quản ở một nhà, đồng thời coi giữ cảnh thổ ấy, nèn khi gia đình có việc lễ phải kêu với ông Táo trước, đế ông Táo biết việc làm của gia chủ, rồi mới lễ Gia tiên. Như vậy, phần văn khấn nếu có ban thờ riêng thì lễ ở ban Táo Quân, đọc văn khấn Táo Quân trước, rồi mới lễ tại ban thờ Gia tiên.
Nếu ban thờ Gia thần cùng chung với ban thờ Gia tiên (hoặc chỉ thêm một bát hương Gia thần hơi cao hơn bát hương Gia tiên một chút) thì văn khấn cũng phải đọc phần Gia thần (Táo Quân) trước rồi mới đến văn khấn Gia tiên.

Bài khấn Nôm ngày 23 tháng Chạp

Hôm nay là ngày …. tháng… năm

Tên tôi (hoặc con) là… cùng toàn gia ở thôn… xã… huyện… tỉnh…

Kính lạy đức ”Đông Trù tư mệnh Táo phủ Thần Quân”

(Có thể khấn thêm)

“Thố địa Long mạch Tôn Thần”

“Ngũ phương ngũ thổ Phúc đức Chính Thần”

Hàng năm gặp tiết hết năm, tháng vừa cuối chạp

Gia đình sửa lễ bạc dâng lên

Cảm tạ phúc dầy nhờ Thần phù hộ

Kính mong Thần tấu bẩm giúp cho:

Bên trong nếp sống rất hòa, ngoài mặt dám rằng cũng đẹp

Cảm thông xin tấu thực thà

Cầu trông giúp đỡ lợi lạc

Người người no ấm, cả nhà thêm tiếng tốt lẫy lừng,

Việc việc thành công, một cửa ngút khí lành man mác

Muốn trông ơn dức vô cùng vậy!

Cẩn cốc (vái 4 vái)

Một bài khấn dân gian khác ngày 23 tháng Chạp

Kính lạy ngài “Đông trù tư mệnh Táo phủ Thần Quân”

Con là… đồng gia… ở thôn… xã… huyện…. tỉnh…

Nhân ngày 23 tháng Chạp, gia chủ chúng con, sửa biện hương hoa, phẩm vật áo mũ;

Kính cẩn dâng lên, dốc lòng bái thỉnh

Phỏng theo tục lệ, kính lạy Gia thần

Đại xá lỗi lầm, gia ân giáng phúc

Ban tài ban lộc, giúp đỡ toàn gia

Lớn bé vui hòa, khang ninh thịnh vượng

Cẩn cáo.

Lại một bài Văn khấn Táo Quân

(Như trên phần mở đầu… )

Vị tiền, tôn thần, đức lớn thẳng ngay, ơn to rộng khắp, Đông Tây Nam Bắc ăn ở đều yên, sỹ-nông-công-thương lại qua đều thuận, bốn dân ca ngợi công lao, mọi chốn vui vầy
đức độ.

Phúc thiện họa dân mệnh trời xét không sai một chút, phù trì giúp đỡ mong Thần coi có sự gia ân. Phép vẫn chia ra sau trước, lễ phải trên dưới rõ ràng.

Đến nay, năm đã hầu tàn, gặp lúc chầu trời đã tới, tảo tần kính lạy, gieo tiền xin mưa móc theo xe, quỳ hoắc đặt bày, ném quả đợi dương xuân thấy lối. Hết tai vạ cũ, ngợi ca câu bóng mát cây bàng, gặp phúc lộc mới tiếp tới nói dây dưa dài mãi.

Thực trông chờ ơn lớn nhân từ khoan nhượng của tôn thần.

Cẩn cốc!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *